Hiện nay, việc gia tăng tỷ lệ vô sinh toàn cầu đang là một vấn đề lâm sàng nghiêm trọng. Có khoảng 8-12% các cặp vợ chồng trên thế giới gặp phải các vấn đề về vô sinh. Trong đó, có đến 40-50% trường hợp là do vô sinh nam. Nguyên nhân gây vô sinh nam có thể là do một hoặc nhiều yếu tố, chẳng hạn như hình thái tinh trùng bất thường, nồng độ tinh trùng thấp và khả năng di chuyển của tinh trùng kém.
Trong những năm gần đây, một hướng nghiên cứu hiệu quả mà các nhà khoa học đang quan tâm đến là sự ảnh hưởng của các gốc tự do ROS (reactive oxygen species) tới vô sinh nam, và vai trò của các chất chống oxy hóa trong việc cải thiện tinh dịch, hỗ trợ điều trị vô sinh nam.
1. Nguyên nhân gây vô sinh nam
Các gốc tự do (ROS) nội sinh chính trong cơ thể bao gồm gốc hydroxyl (•OH), superoxide anion (•O2-) và hydrogen peroxide (H2O2)
Stress oxy hóa (Oxidative stress, OS) là tình trạng gây nên bởi sự mất cân bằng giữa việc cơ thể gia tăng sản sinh quá nhiều các chất oxy hóa (gốc tự do) nhưng lại giảm khả năng khử độc đối với các chất này. Đây là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến vô sinh nam. Do có một electron chưa ghép cặp ở lớp vỏ ngoài nên ROS có khả năng phản ứng cao, dẫn đến sự peroxy hóa lipid, tổn hại protein và có khả năng tương tác với axit nucleic để tạo ra sự sửa đổi bazơ và phân mảnh DNA, dẫn đến tổn thương DNA tinh trùng, giảm số lượng tinh trùng và giảm khả năng vận động của tinh trùng.
Hiện nay, các yếu tố thuộc về môi trường sống (như nhiệt độ cao, sóng điện từ, ô nhiễm không khí, nước, môi trường sống, thuốc diệt cỏ, thuốc trừ sâu, kim loại nặng,…) và yếu tố thuộc về lối sống (như bia rượu, béo phì, hút thuốc lá, chế độ ăn nghèo dinh dưỡng,…) có thể làm gia tăng các gốc tự do chứa oxy trong cơ thể. Các gốc tự do này tác động gây tổn thương đối với DNA, peroxy hóa lipid màng tế bào tinh trùng, giảm số lượng, chất lượng và tính di động của tinh trùng.
Đây trở thành một vấn đề lớn, đặc biệt ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, khi con người sống trong môi trường ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm không khí, thực phẩm không an toàn do sử dụng quá mức các chất bảo vệ thực vật, thuốc diệt cỏ, văn hóa rượu bia, hút thuốc lá, ánh sáng UV,… Đây là một trong những nguyên nhân chính làm tăng nguy cơ vô sinh, dẫn đến tỷ lệ vô sinh nam ngày càng tăng cao.
Yếu tố | Kết quả thông số tinh dịch | |
Gây ra do khám bệnh hoặc điều trị | Ly tâm | Tăng tính di động, hình thái tinh trùng |
Đông lạnh | Giảm tính di động, sức sống tinh trùng | |
Sử dụng thuốc | Nhóm opioid làm giảm nồng độ, hình thái tinh trùng | |
Thuốc chống trầm cảm làm giảm tính di động, hình thái tinh trùng | ||
Lối sống | Tuổi nam | Giảm nồng độ, tính di động tinh trùng |
Hút thuốc lá | Giảm tính di động, hình thái tinh trùng | |
Rượu bia | Giảm tính di động, hình thái tinh trùng | |
Béo phì | Giảm nồng độ, tính di động, hình thái, sức sống tinh trùng | |
Stress | Giảm nồng độ, tính di động, hình thái tinh trùng | |
Môi trường sống | Ô nhiễm không khí | Gây phân mảnh DNA tinh trùng |
Thuốc bảo vệ thực vật | Giảm tính di động và sức sống tinh trùng, cũng như tăng pH | |
Chất dẻo | Giảm nồng độ, tính di động và hình thái tinh trùng | |
Kim loại nặng | Cadmium làm giảm nồng độ tinh trùng | |
Selenium làm tăng nồng độ, tính di động và sức sống tinh trùng | ||
Bức xạ không ion hóa | Tăng tính di động và sức sống tinh trùng | |
Nhiễm khuẩn | Đường sinh dục | Giảm nồng độ tinh trùng |
Hệ thống | HIV giảm tính di động tinh trùng | |
Viêm gan B giảm thể tích tinh dịch, nồng độ, tính di động, hình thái, sức sống tinh trùng, cũng như giảm pH | ||
Tự miễn dịch | Đảo ngược thắt ống dẫn tinh | Giảm nồng độ, tính di động tinh trùng |
Viêm tuyến tiền liệt mãn tính | Stress oxy hóa tinh dịch (đặc trưng bởi sự tăng đáng kể tỷ lệ ROS/ các chất chống oxy hóa) | |
Tinh hoàn | Giãn tĩnh mạch thừng tinh | Giảm nồng độ tinh trùng |
Xoắn tinh hoàn | Giảm nồng độ tinh trùng | |
Tinh hoàn lạc chỗ | Giảm nồng độ, tính di động, hình thái và sức sống tinh trùng | |
Bệnh mãn tính | Đái tháo đường | Giảm thể tích tinh dịch |
Bệnh thận mạn tính | Giảm nồng độ, tính di động tinh trùng | |
β-thalassemia | Giảm tính di động tinh trùng | |
Giảm chức năng tuyến giáp | Giảm hoạt động tuyến giáp làm giảm nồng độ, tính di động và hình thái tinh trùng | |
Hoạt động tuyến giáp quá mức làm giảm tính di động tinh trùng | ||
Sự tăng homocysteine máu | Giảm tính di động tinh trùng |
2. Phòng ngừa và điều trị
Để duy trì cơ chế oxy hóa sinh lý và giảm thiểu nguy cơ tổn thương tới tế bào thì việc cân bằng giữa ROS và các chất chống oxy hóa là hết sức cần thiết. Các chất chống oxy hóa đóng vai trò quan trọng trong việc trung hòa các ROS, hình thành hàng rào ngăn cản sự stress oxy hóa.
Nhiều bằng chứng cho thấy nồng độ các chất chống oxy hóa trong tinh dịch ở những nam giới vô sinh thấp hơn so với những nam giới bình thường. Điều này cũng giải thích cho việc thiếu hụt các chống oxy hóa so với nồng độ cao ROS ở nam giới vô sinh.
Hầu hết các nghiên cứu đều chỉ ra rằng các chất chống oxy hóa (antioxidants) đóng vai trò quan trọng trong việc ngăn ngừa quá trình oxy hóa, bảo vệ tinh trùng chống lại tác động của các yếu tố gây tổn thương đến DNA tinh trùng, do đó có tác dụng cải thiện tốt khả năng sinh sản ở nam giới.
3. Tóm tắt về sản phẩm Menfelix
* Dựa vào các nguyên nhân gây ra vô sinh nam, bao gồm:
- Tinh trùng yếu do thiếu chất dinh dưỡng.
- Tinh trùng bị oxy hóa dẫn tới phá hủy DNA tinh trùng, giảm số lượng, tính di động và nồng độ tinh trùng.
- Các yếu tố về lối sống như béo phì, sử dụng thuốc lá, rượu bia, stress (yếu tố ROS), môi trường sống (ảnh hưởng tới DNA tinh trùng).
* Dựa vào hướng dẫn của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) được sử dụng để đánh giá chất lượng tinh trùng: Trong 5 yếu tố dưới đây, nếu bất kỳ yếu tố nào bị thiếu đều có thể ảnh hưởng đến cơ hội thụ thai:
- Số lượng tế bào tinh trùng: số lượng tinh trùng trong lần xuất tinh. Xuất tinh bình thường sẽ chứa hơn 40 triệu tế bào tinh trùng.
- Nồng độ của tinh trùng: số lượng tinh trùng trên một mililit xuất tinh. Một mẫu tinh dịch bình thường chứa hơn 20 triệu tinh trùng trên một mililit xuất tinh.
- Khả năng vận động (tính di động) của tinh trùng: khả năng di chuyển của tinh trùng. Trong một mẫu tinh dịch khỏe mạnh, hơn 50% tinh trùng sẽ thể hiện khả năng vận động mạnh và 25% sẽ di chuyển mạnh mẽ theo một hướng. Các chuyên gia sinh sản tin rằng đây có thể là yếu tố quan trọng nhất đối với khả năng sinh sản của nam giới, vì tinh trùng cần phải bơi một quãng dài từ âm đạo qua cổ tử cung, vào tử cung để gặp trứng được phóng thích tại nơi xảy ra thụ tinh.
- Tốc độ tinh trùng: ít nhất 25% tinh trùng nên có chuyển động nhanh và chuyển động thẳng về phía trước.
- Hình thái tinh trùng: mô tả kích thước và hình dạng của tinh trùng. Một tinh trùng khỏe mạnh trông giống như một con nòng nọc. Ít nhất 30% tinh trùng phải có hình dạng và kích thước bình thường.
Thông số chuẩn cho tinh dịch như sau:
- pH ≥ 7,2
- Nồng độ tinh dịch ≥ 15 triệu/ml
- Thể tích tinh dịch ≥ 1,5 ml
- Khả năng di chuyển của tinh trùng ≥ 32%
- Hình thái bình thường ≥ 4%
Chính vì vậy, sản phẩm Menfelix ra đời với mục đích khắc phục được toàn diện các nguyên nhân gây vô sinh nam và bảo toàn tính toàn vẹn DNA tinh trùng, từ đó cải thiện khả năng sinh sản ở nam giới.
Nguyên nhân | Menfelix – Nhóm chất và tác dụng |
Tinh trùng yếu do thiếu chất dinh dưỡng | Bổ sung chất dinh dưỡng như kẽm, acid folic, fructose (cần cho sự sao chép DNA), vitamin B12 |
Tinh trùng bị oxy hóa dẫn tới phá hủy DNA tinh trùng, giảm số lượng, tính di động và nồng độ tinh trùng | Chất chống oxy hóa như: Coenzym Q10, L-carnitin, acetyl-L-carnitin, Selen, N-acetyl cystein |
Các yếu tố về lối sống như béo phì, sử dụng thuốc lá, rượu bia, stress (yếu tố ROS), môi trường sống (ảnh hưởng tới DNA tinh trùng) | Bổ sung các chất chống oxy hóa khác nhau (L-arginin, vitamin C, vitamin E, lycopen) |
Hoạt chất | Cơ chế hoạt động |
Vitamin C | Trung hòa gốc tự do |
Vitamin E | Trung hòa gốc tự do |
Acid folic | Bắt gốc tự do |
Selen | Tăng cường hoạt động của các enzyme chống oxy hóa |
Kẽm | Ức chế NADPH oxidase |
Các carnitin | Trung hòa gốc tự do và hoạt động như một nguồn năng lượng |
Coenzym Q10 | Bắt các gốc tự do |
N-acetyl cystein | Tăng cường hoạt động của các enzyme chống oxy hóa |
Lycopen | Quét dọn các gốc tự do |
Yếu tố cải thiện | Nhóm chất |
Số lượng tế bào tinh trùng | L-arginin, acid folic, kẽm |
Nồng độ tinh trùng | Kẽm và acid folic |
Tính di động của tinh trùng | L-carnitin và Acetyl-L-carnitin, Fructose |
Tốc độ tinh trùng | Selen, vitamin B12 |
Hình thái, tính nguyên vẹn tế bào tinh trùng | Lycopen, Coenzym Q10 kết hợp vitamin E và vitamin C |
Nhóm chất carnitin: Carnitin [L-Carnitin (LC) và L-acetyl Carnitin (LAC)] là những chất chống oxy hóa tan trong nước, có liên quan với việc thúc đẩy các hoạt động quan trọng trong chuyển hóa tinh trùng như vận động tinh trùng. Thật vậy, nghiên cứu in vitro cho thấy, tinh trùng được nuôi cấy trong môi trường chứa carnitin có tính di động và tốc độ cao hơn khi so sánh với nhóm chứng. Các carnitin thể hiện tác dụng chống oxy hóa thông qua việc quét các anion superoxide và các gốc hydro peroxide, do đó ức chế quá trình peroxy hóa lipid. Nồng độ carnitin trong các mẫu tinh dịch từ nam giới vô sinh là thấp hơn đáng kể so với nam giới có chức năng sinh sản bình thường.
Các carnitin đã được chứng minh là có ảnh hưởng đáng kể, đặc biệt về khả năng vận động của tinh trùng. Một nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi, kiểm soát giả dược được tiến hành trên nam giới bị tinh trùng ít, yếu, dị dạng (OAT). Sau thời gian 2 tháng, bệnh nhân được điều trị kết hợp LC (2 g) và LAC (1 g) đã cải thiện đáng kể tất cả các thông số tinh dịch; đặc biệt về khả năng vận động tinh trùng. Balercia và cộng sự cũng đã xác nhận kết quả như vậy khi điều trị với carnitin ở những bệnh nhân có sự vận động tinh trùng thấp. Cavallini và cộng sự đã thực hiện nghiên cứu trên bệnh nhân mắc giãn tĩnh mạch thừng tinh và vô sinh vô căn, kết quả cho thấy có một sự cải thiện đáng kể trong tất cả các thông số tinh dịch ở những bệnh nhân được điều trị bằng LC và LAC, khi so sánh với giả dược. Một nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi, kiểm soát giả dược đã đánh giá hiệu quả của LC trong việc cải thiện chất lượng tinh trùng ở 30 đàn ông vô sinh. Bệnh nhân được chọn ngẫu nhiên để điều trị với LC hoặc giả dược trong 2 tháng. Các tác giả đã chỉ ra rằng LC cải thiện đáng kể nồng độ tinh trùng (P<0,05). Nhìn chung, LAC hoặc kết hợp điều trị LAC + LC đã cải thiện tinh trùng tốt hơn về nồng độ và tính di động tinh trùng.
Vitamin E (a-tocopherol): là một chất chống oxy hóa phá vỡ chuỗi mạnh mẽ, hợp chất tan trong chất béo hữu cơ, và nằm chủ yếu ở màng tế bào. Nó làm dịu gốc hydroxyl và anion superoxide, do đó làm giảm sự peroxy hóa lipid do ROS gây ra ở mức độ màng sinh chất. Một mối quan hệ trực tiếp đã được phát hiện giữa nồng độ vitamin E trong tinh dịch và tỷ lệ tinh trùng di động trong tinh dịch. Hơn nữa, nồng độ vitamin E thấp hơn đã được quan sát thấy trong tinh dịch của những người đàn ông vô sinh.
Một nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của vitamin E (300 mg/ngày) trên 380 đàn ông vô sinh đã chỉ ra sự cải thiện đáng kể về tính di động của tinh trùng, ở mức trung bình (SD) là +25,2 (1,1) % (P <0,001). Một nghiên cứu ngẫu nhiên so sánh hiệu quả của việc sử dụng vitamin E một mình, clomiphene citrate đơn thuần hoặc kết hợp cả hai trên tinh dịch đồ của 90 bệnh nhân có tinh trùng yếu. Sau thời gian điều trị 6 tháng, nghiên cứu cho thấy sự hiện diện của vitamin E cải thiện đáng kể nồng độ tinh trùng (P =0,001) và khả năng vận động của tinh trùng (P <0,001) với chế độ kết hợp. Một nghiên cứu quan sát khác đã đánh giá sự kết hợp hàng ngày giữa vitamin E (400 mg) và selen (200 µg), trong khoảng thời gian 100 ngày, trên 690 nam giới vô sinh vô căn với tinh trùng ít, yếu, dị dạng. Kết quả thu được cho thấy 52,6% bệnh nhân có sự cải thiện đáng kể về khả năng vận động của tinh trùng, hình thái hoặc cả hai (P ≤ 0,001). Comhaire và cộng sự trong một nghiên cứu triển vọng mở trên 27 người đàn ông vô sinh, cho thấy sự kết hợp vitamin E với vitamin A và axit béo thiết yếu có tác dụng cải thiện nồng độ tinh trùng ở nam giới có nồng độ tinh trùng thấp, từ trung bình là 7,4 (1,3) đến 12,5 (1,9) x 106 tinh trùng/mL.
Một nghiên cứu khác sử dụng vitamin E dùng đường uống (100 mg x 3 lần mỗi ngày) cho bệnh nhân có tinh trùng yếu (n = 52) cho thấy có đến 60% số bệnh nhân có khả năng vận động của tinh trùng được cải thiện, trong đó có 21% cho kết quả mang thai.
Bổ sung vitamin E còn có tác dụng tốt đối với chức năng tinh trùng trong ống nghiệm và tỷ lệ thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) so với nhóm giả dược. Vitamin E (200 mg mỗi ngày) làm giảm đáng kể nồng độ malondialdehyd và cải thiện tỷ lệ thụ tinh với IVF, đặc biệt ở những bệnh nhân có tiền sử IVF thất bại trước đó. Tương tự, Kessopoulou và cộng sự đã chọn ngẫu nhiên 30 người đàn ông có nồng độ ROS trong tinh dịch cao, được điều trị với vitamin E (600 mg) hoặc giả dược trong 3 tháng. Kết quả cho thấy thông số tinh dịch ở những bệnh nhân được điều trị vitamin E có sự tăng cường đáng kể về chức năng tinh trùng trong ống nghiệm.
Vitamin C (axit ascorbic): là hợp chất tan trong nước, tồn tại ở nồng độ trong tinh dịch cao hơn 10 lần so với trong huyết thanh. Nó có tác dụng trung hòa các gốc hydroxyl, superoxide và hydro peroxide, bảo vệ các chất chống oxy hóa nội sinh. Phân tích tinh dịch từ những người đàn ông vô sinh với tinh trùng yếu cho thấy có nồng độ vitamin C thấp hơn và nồng độ ROS cao hơn so với nam giới có chức năng sinh sản bình thường.
Nghiên cứu thực hiện trên 90 người đàn ông nghiện thuốc lá nặng, sử dụng vitamin C với liều hàng ngày 200 mg hoặc 1000 mg, so sánh với nhóm sử dụng giả dược trong vòng 1 tháng. Kết quả cho thấy vitamin C cải thiện đáng kể chất lượng tinh trùng. Một nghiên cứu khác đã xem vitamin C như một liệu pháp bổ trợ cho những bệnh nhân trải qua phẫu thuật giãn tĩnh mạch. 115 bệnh nhân được chọn ngẫu nhiên để điều trị với 500 mg vitamin C hoặc giả dược, sử dụng hàng ngày trong vòng 3 tháng. Kết quả cho thấy có sự cải thiện đáng kể về khả năng vận động của tinh trùng (P = 0,041) và hình thái học (P <0,001) trong nhóm điều trị so với nhóm giả dược. Omu và cộng sự cũng đã chỉ ra rằng có sự cải thiện đáng kể trong khả năng vận động của tinh trùng (P <0,001) khi kết hợp vitamin C với kẽm và vitamin E. Một nghiên cứu khác của Galatioto và cộng sự đã nghiên cứu tác dụng của các chất chống oxy hóa (gồm NAC và vitamin C) ở bệnh nhân giãn tĩnh mạch thừng tinh với số lượng tinh trùng ít, nghiên cứu kéo dài trong 6 tháng. Tổng cộng có 20 bệnh nhân được điều trị bằng chất chống oxy hóa, so sánh với 22 bệnh nhân nhóm đối chứng. Kết quả cho thấy sự gia tăng đáng kể về số lượng tinh trùng (P = 0,009) được ghi nhận trong nhóm điều trị, không có ảnh hưởng đáng kể đến khả năng vận động hoặc hình thái của tinh trùng. Một nghiên cứu khác đánh giá sự kết hợp của vitamin E và C (1 mg mỗi thành phần), sử dụng trong hai tháng ở những bệnh nhân tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (ICSI) trước đây đã thất bại (n = 38). Kết quả cho thấy nhóm sử dụng chất chống oxy hóa có cải thiện về tỷ lệ mang thai (49,3 so với 6,9%) và tỷ lệ cấy ghép (19,2 so với 2,2%).
Coenzym Q10 là một chất chống oxy hóa quan trọng có mặt ở hầu hết tất cả các mô cơ thể. Đặc biệt, nó có mặt với nồng độ cao trong ty thể của tinh trùng, liên quan đến hô hấp tế bào và đóng vai trò không thể thiếu trong sản xuất năng lượng. Hơn nữa, CoQ10 ức chế sự hình thành superoxide, bảo vệ chống lại sự rối loạn chức năng tinh trùng. Có một mối tương quan nghịch đáng kể giữa các mức CoQ10 và hydro peroxide, và mối tương quan tuyến tính giữa nồng độ CoQ10 trong tinh dịch với số lượng và tính di động của tinh trùng.
CoQ10 đã được chứng minh là cải thiện đáng kể nồng độ và khả năng vận động của tinh trùng so với giả dược. Safarinejad đã chia ngẫu nhiên 212 người đàn ông vô sinh với OAT vô căn, sử dụng 300 mg CoQ10 hoặc giả dược, dùng đường uống trong 26 tuần. Tác giả chỉ ra rằng có sự gia tăng đáng kể mật độ tinh trùng và khả năng vận động tinh trùng khi dùng CoQ10 (P = 0,01). Một thử nghiệm lâm sàng đối chứng giả dược đã đánh giá sự ảnh hưởng của CoQ10 đến các thông số tinh dịch đồ và nồng độ enzyme chống oxy hóa. Nghiên cứu cho thấy sự cải thiện đáng kể về hình thái tinh trùng (P = 0,037), catalase (P =0,041) và superoxide effutase (P <0,001) trong nhóm điều trị so với nhóm giả dược. Một đánh giá có hệ thống của ba thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên kiểm soát trên 332 người đàn ông vô sinh cho thấy điều trị bằng CoQ10 (200 – 300 mg mỗi ngày) dẫn đến sự gia tăng đáng kể nồng độ tinh trùng (5,33 x 106 tinh trùng/mL, P <0,001) và tính di động của tinh trùng (4,5%, P <0,001).
Sự gia tăng tỷ lệ mang thai tự phát cùng với sự cải thiện nồng độ và khả năng vận động của tinh trùng đã được báo cáo bởi các nghiên cứu đánh giá việc sử dụng CoQ10 dùng đường uống cho nam giới vô sinh. Điều trị với CoQ10 cũng cho thấy sự ảnh hưởng tốt đến kết quả của quá trình ICSI.
N-Acetyl Cystein (NAC): một axit amin được chuyển đổi trong các mô cơ thể với cystein, tiền chất của glutathion. Nó là một chất chống oxy hóa tự nhiên quan trọng, có khả năng vô hiệu hóa các ROS khác nhau. Ngoài ra, NAC cũng có khả năng giảm OS trực tiếp thông qua việc quét axit hypochlorous và các gốc hydroxyl. Những đặc tính chống oxy hóa của NAC đã được ghi nhận rõ thông qua ảnh hưởng thuận lợi của nó đối với sự sống của tế bào mầm. Nghiên cứu in vitro cho thấy sự giảm đáng kể về nồng độ ROS và cải thiện tính di động của tinh trùng sau khi ủ mẫu tinh dịch với NAC.
NAC đã được đánh giá trong một nghiên cứu ngẫu nhiên sử dụng giả dược ở 120 bệnh nhân bị vô sinh. Bệnh nhân được chọn ngẫu nhiên để sử dụng 600 mg NAC/ngày (n = 60) hoặc giả dược (n = 60), trong 3 tháng. Kết quả cho thấy sự cải thiện đáng kể về thể tích, tính di động và độ nhớt của tinh dịch khi sử dụng NAC so với giả dược. Sử dụng kết hợp 600 mg NAC và 200 mg selen dẫn đến sự cải thiện đáng kể trong tất cả các thông số tinh dịch, với mối tương quan phụ thuộc liều giữa tổng nồng độ selen và NAC, và nồng độ tinh trùng, tính di động, tỷ lệ phần trăm hình thái học bình thường của tinh trùng.
Selen: một nguyên tố vi lượng thiết yếu có liên quan đến sự sinh tinh trùng, được cho là xuất phát từ khả năng bảo vệ DNA tinh trùng chống lại quá trình OS trong một cơ chế chưa được giải thích rõ. Vì selen là thành phần chính của một nhóm protein cụ thể gọi là selenoenzyme, tính chất chống oxy hóa của nó được cho là do khả năng tăng cường chức năng của glutathion của nó. Hơn 25 selenoprotein tồn tại, chẳng hạn như phospholipid hydroperoxide glutathione peroxidase (PHGPX) và selenoprotein dạng nang của tinh trùng glutathione peroxidase, giúp duy trì tính toàn vẹn cấu trúc của tinh trùng. Sự thiếu hụt selen đã được chứng minh có liên quan tới hình thái bất thường của tinh trùng và suy giảm khả năng vận động của tinh trùng.
Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng giả dược bao gồm 468 người đàn ông vô sinh bị OAT vô căn, được điều trị với selenium (200 mg) đơn lẻ, NAC (600 mg) đơn lẻ, kết hợp của cả hai chất, hoặc giả dược trong 26 tuần. Kết quả cho thấy một sự cải thiện đáng kể tất cả các thông số tinh dịch trong các nhóm điều trị so với giả dược. Một mối tương quan lớn đã được nhìn thấy giữa tổng nồng độ selen và NAC và nồng độ tinh trùng trung bình (r = 0,67, P = 0,01), khả năng di chuyển của tinh trùng (r =0,64, P = 0,01) và tỷ lệ hình thái bình thường của tinh trùng (r = 0,66, P = 0,01). Hơn nữa, sự kết hợp sử dụng selen với vitamin E dẫn đến gia tăng sự vận động của tinh trùng.
Kẽm: một nguyên tố vi lượng thiết yếu. Nó đóng một vai trò quan trọng trong quá trình chuyển hóa RNA và DNA, truyền tín hiệu, gen biểu hiện, và quy định của apoptosis. Nó đóng vai trò chống oxy hóa bằng cách giảm sản xuất hydro peroxide và các gốc hydroxyl thông qua quá trình khử. Nồng độ kẽm trong tinh dịch được tìm thấy ở nam giới có khả năng sinh sản bình thường cao hơn đáng kể so với nam giới hiếm muộn. Kẽm được cho là đóng vai trò quan trọng trong sự bảo vệ cấu trúc tinh trùng.
Một thử nghiệm ở những người đàn ông bị suy nhược cơ thể được sử dụng kẽm trong 3 tháng. Kết quả cho thấy một sự cải thiện đáng kể về nồng độ tinh trùng (P <0,02), tính di động tinh trùng (P < 0,05)và khả năng thụ tinh (P <0,01). Bổ sung kẽm đường uống có tác dụng phục hồi các hoạt động giống như catalase và cải thiện nồng độ tinh trùng và tính di động tinh trùng ở nhóm những người đàn ông suy nhược.
Một thử nghiệm sử dụng kẽm sulphat dùng đường uống như một liệu pháp chống oxy hóa (250 mg x 2 lần mỗi ngày) trong ba tháng, đã cho thấy sự cải thiện đáng kể khả năng sinh sản của nam giới có tinh trùng yếu (n = 100), đặc biệt cải thiện các thông số về nồng độ, khả năng vận động và tính toàn vẹn màng tinh trùng. Tỷ lệ mang thai cũng được cải thiện ở những cặp vợ chồng mà nam giới được điều trị với kẽm khi so sánh với giả dược, 22,5% (11/49) so với 4,3% (2/48), tương ứng. Một thử nghiệm khác trên 14 bệnh nhân, kết quả cho thấy các thông số về tinh trùng đã được cải thiện sau khi điều trị với kẽm.
Axit folic (vitamin B9): tham gia vào quá trình tổng hợp axit nucleic và chuyển hóa axit amin. Công dụng của nó trong điều trị vô sinh nam là dựa trên khả năng bắt giữ các gốc tự do. Axit folic đã được khảo sát trong một nghiên cứu can thiệp kiểm soát giả dược, mù đôi, trong đó 108 người đàn ông có khả năng sinh sản và 103 người đàn ông hiếm muộn được chọn ngẫu nhiên vào bốn nhóm; được sử dụng axit folic đơn lẻ, kẽm đơn lẻ, kết hợp của cả axit folic và kẽm, và giả dược. Sau 26 tuần điều trị, có sự gia tăng đáng kể về nồng độ tinh trùng trung bình khi được điều trị kết hợp.
Lycopen: một loại caroten được tổng hợp tự nhiên có trong trái cây và rau quả. Khả năng quét dọn ROS mạnh mẽ của nó đóng một vai trò quan trọng đối với hệ thống phòng thủ của con người. Lycopen được phát hiện với nồng độ cao trong tinh hoàn và tinh dịch, tuy nhiên có nồng độ thấp hơn ở nam giới vô sinh.
Một nghiên cứu đã đánh giá việc sử dụng lycopen trên 30 nam giới mắc OAT vô căn. Bệnh nhân được điều trị bằng 2 mg lycopen x 2 lần mỗi ngày, sử dụng trong 3 tháng. Các tác giả đã chỉ ra những cải thiện về nồng độ và khả năng vận động của tinh trùng ở các bệnh nhân này, tương ứng là 66% và 53%.
Mohanty và cộng sự cũng đã sử dụng lycopen để điều trị 50 bệnh nhân mắc OAT vô căn. Sau khi theo dõi trong thời gian 1 năm, nồng độ tinh trùng, khả năng vận động và hình thái tinh trùng ở những bệnh nhân này đã được cải thiện tương ứng là 70%, 54% và 38%.
Vitamin B12 là một vitamin tan trong nước, rất cần thiết cho sự tăng trưởng, phát triển và trao đổi chất của con người. Vitamin B12 tham gia vào quá trình chuyển hóa của hầu hết các tế bào trong cơ thể con người, vì nó cần thiết để tham gia quá trình tổng hợp DNA, cũng như chuyển hóa axit amin và axit béo. Vitamin B12 đóng vai trò quan trọng trong quá trình sinh tinh và chất lượng tinh dịch. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng nồng độ vitamin B12 trong huyết tương thấp hơn ở những người đàn ông vô sinh. Trong nhiều nghiên cứu khác nhau, vitamin B12 đã được chứng minh có nhiều tác dụng tốt đối với tinh trùng như cải thiện về số lượng, tính di động, hình thái và DNA tinh trùng.
Sinclair đề xuất vitamin B12 như một liệu pháp dinh dưỡng giúp cải thiện chất lượng tinh dịch, chủ yếu là số lượng tinh trùng và khả năng vận động tinh trùng. Năm 2006, vitamin B12 được đề xuất là một trong những loại thuốc ứng cử cho việc điều trị vô sinh nam do những tác động tích cực của nó đến các thông số tinh trùng, đặc biệt là số lượng tinh trùng. Năm 2013, một phương pháp điều trị bằng các chống oxy hóa dùng đường uống bao gồm vitamin B12 đã được chứng minh trong việc cải thiện sức sống của tinh trùng, tính di động và tính toàn vẹn DNA tinh trùng.
Fructose được cho là một nguồn năng lượng chính cho tinh trùng và được tìm thấy trong tinh dịch ở nhiều loài động vật có vú.
Rajalakhshmi M và Gonzales GF đã chỉ ra rằng, sự gia tăng nồng độ tinh trùng thường kèm theo sự giảm nồng độ fructose ở tinh dịch, vì tinh trùng sử dụng fructose làm nguồn năng lượng chính, do đó việc bổ sung fructose giúp tinh trùng khỏe mạnh hơn.
L-arginin là một axit amin hoạt động như một chất nền cho Enzyme Nitric Oxide Synthase (NOS), sản xuất oxit nitric (NO). L-arginin tham gia vào quá trình hình thành tinh trùng và được tìm thấy là thành phần cơ bản của nucleoprotein của tinh trùng ở các loài khác nhau. Có mối tương quan giữa việc thiếu hụt L-arginin và sự giảm sinh tinh, giảm khả năng vận động của tinh trùng.
TT | Hoạt chất | Vai trò chính | Tác dụng | Ưu điểm của sản phẩm |
1 | L-carnitin | Tăng di động | Tăng di động, tăng số lượng tinh trùng (kết hợp Acetyl-L-carnitin) | L-carnitin và Acetyl-L-carnitin cải thiện đáng kể tính di động của tinh trùng.Coenzym Q10 kết hợp vitamin C, E hạn chế sự phá hủy DNA tinh trùng.Selen kết hợp Kẽm, vitamin E, N-acetyl cystein tăng tính di động, cải thiện hình thái tinh trùng.Kết hợp L-Arginin và vitamin E tăng sự sống cho tinh trùng.Kết hợp kẽm, acid folic và Fructose tăng nồng độ tinh trùng.Sử dụng L-arginin vừa cải thiện tinh trùng vừa tăng khả năng cương cứng, tăng ham muốn.Sản phẩm có công dụng cải thiện tất cả các yếu tố để đạt chất lượng tinh trùng tốt theo WHO: về số lượng, nồng độ, tính di động, tốc độ, hình thái, tính nguyên vẹn tế bào (tăng sự sống) tinh trùng. |
Trường hợp lâm sàng | Nhóm chất chống oxy hóa | TLTK |
Thông số tinh dịch đồ | ||
Số lượng tinh trùng ít | Vitamin E, vitamin C, NAC, carnitin, CoQ10, lycopen, L-arginin, selen, kẽm và Fructose | 32, 33, 34, 35, 36, 37, 38, 39, 40, 41, 42. |
Vitamin E | ||
Vitamin E, vitamin A và các acid béo thiết yếu hoặc NAC | ||
NAC, một số vitamin và khoáng chất | ||
L-carnitin | ||
CoQ10 | ||
NAC và selen | ||
Folic acid và kẽm | ||
Lycopen | ||
L-arginin | ||
Fructose | ||
Tinh trùng yếu | Vitamin E, vitamin C, NAC, carnitin, CoQ10, lycopen, L-arginin, Fructose, selen và kẽm | |
Vitamin E và selen | 43, 44, 45, 36,46, 37, 39, 47, 48, 43, 37, 44, 49. | |
Kẽm, vitamin E và vitamin C | ||
L-carnitin và Acetyl-L-carnitin | ||
CoQ10 | ||
NAC | ||
NAC và selen | ||
Lycopen | ||
L-arginin HCl | ||
Fructose | ||
Tinh trùng dị dạng | Vitamin E, NAC, lycopen, selen và kẽm | |
Vitamin E và selen | ||
NAC và selen | ||
Kẽm, vitamin E và vitamin C | ||
Lycopen | ||
Cải thiện chức năng của tinh trùng | ||
Sự phân mảnh DNA tinh trùng cao | Vitamin E, vitamin C, kẽm, selen, folic acid và vitamin B12 | |
Vitamin E và vitamin C | 50, 51, 52, 53. | |
Vitamin C, vitamin E, β-caroten, kẽm và selen | ||
L-carnitin, vitamin C, CoQ10, vitamin E, kẽm, folic acid,Selen, vitamin B12 | ||
Stress oxy hóa | Vitamin E, vitamin C, NAC, selen và kẽm | |
Vitamin E | 54, 33, 44, 55, 46. | |
Vitamin E và β-caroten | ||
Vitamin E, vitamin C và kẽm | ||
Vitamin E và selen | ||
NAC | ||
Cải thiện tỷ lệ thành công của phương pháp hỗ trợ sinh sản | Vitamin E, vitamin C, lycopen, CoQ10, folic acid, selen, kẽm | |
Vitamin E | 56, 57, 58, 59. | |
Lycopen, vitamin E, vitamin C, kẽm, selen, folate và garlic | ||
Vitamin E | ||
Vitamin C và vitamin E | ||
Tỷ lệ sinh | Vitamin E, vitamin C, carnitin, coQ10 và kẽm | |
CoQ10 | 36, 60, 54, 61, 50, 62. | |
Vitamin E | ||
Kẽm | ||
Vitamin E và vitamin C | ||
L-carnitin và Acetyl-L-carnitin | ||
Cải thiện khả năng ham muốn | L-arginin | 63, 64 |