Giới thiệu sản phẩm Ovaceptil

Inositol là một hợp chất hữu cơ tuần hoàn thuộc về nhóm chất đường, với công thức C6H12O6. Nó được đại diện bởi chín đồng phân lập thể, trong đó myo-inositol (MI) và D-chiro-inositol (DCI) là phân bố rộng nhất trong cơ thể người. MI là một stereoisome chiếm ưu thế trong cơ thể con người (hơn 99% của tất cả stereoisomers) và là chất nền cơ bản phụ thuộc con đường G-protein. DCI được tổng hợp bằng cách chuyển đổi MI thành DCI bằng epimerase phụ thuộc insulin. MI đôi khi được coi là một phần tử của nhóm phức hợp vitamin B; tuy nhiên, ở cơ thể người nó có thể được tổng hợp từ glucose. Trong hai bước này phản ứng, glucose-6-phosphate được đồng phân hóa đầu tiên bởi inositol-3-phosphate synthase 1 (IPS1, EC 5.5.1.4) thành inositol-3-phosphate, và sau đó inositol-3-phosphate bị khử phospho hóa bởi inositol-monophosphatase (IMP1, EC 3.1.3.25) thành myo-inositol (MI). Do hiệu quả hạn chế của phản ứng này, inositol chủ yếu đến từ các nguồn ngoại sinh.

Cả MI và DCI đều là các phân tử hoạt tính sinh học quan trọng. Trong tế bào, chúng là thành phần của phospholipids màng tế bào trong đó đóng vai trò cấu trúc và chức năng. Màng tế bào phospholipids là nguồn gốc của inositol triphosphate (IP3), diacylglycerol (DAG) và inositolphosphoglycans (IPG) có tác dụng là chất mang thông tin thứ hai của nhiều con đường trao đổi chất, bao gồm những chất phụ thuộc vào hormone kích thích tuyến giáp (TSH), hormone kích thích nang trứng (FSH), hormone luteinizing (LH) và insulin. Mặc dù sự khác biệt duy nhất giữa MI và DCI là cấu tạo của nhóm hydroxyl, tính chất sinh học của chúng thay đổi đáng kể. Cả MI và DCI đều được coi là cảm nhận thể của insulin nhưng hoạt động thông qua các cơ chế khác nhau. MI quy định sự hấp thu glucose của tế bào, trong khi DCI chủ yếu kích thích glycogen synthase (GS) và điều chỉnh steroidogenesis. Trong kết nối với thực tế này, trong các mô dự trữ glycogen (gan, cơ bắp, chất béo) tỷ lệ DCI/MI cao hơn trong các mô dữ trữ glucose (tim, buồng trứng). Chuyển đổi MI thành DCI là được điều chỉnh bởi epimerase phụ thuộc insulin, và theo hồ sơ mô khác nhau hoạt động của nó khác nhau. Sự suy yếu của chức năng epimerase (quá mức hoặc kém hoạt động) có thể dẫn đến inositols mất cân bằng và liên quan đến các 2 loại bệnh tiểu đường và hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS). Nồng độ cao MI có trong đường sinh sản nam và nữ. Những phát hiện này đã tạo tiền đề để nghiên cứu thêm vai trò của nó trong khả năng sinh sản và hỗ trợ ý tưởng về tầm quan trọng của nó trong sinh sản.

Bổ sung MI cho thấy cải thiện sự trao đổi chất và tăng sinh sản đối với phụ nữ mắc hội chứng buồng trứng đa năng (PCOS), ngoài việc tăng tỷ lệ mang thai lâm sàng trong phụ nữ vô sinh trải qua quá trình rụng trứng đối với ICSI hoặc IVF-ET, MI còn có thể cải thiện chất lượng phôi và giảm số lượng của noãn bào không phù hợp.

Tuy nhiên, một số nghiên cứu gần đây cho thấy bổ sung MI là không đủ để cải thiện sự trưởng thành tế bào trứng, chất lượng phôi hoặc tỷ lệ có thai.

Về DCI, khi dùng một mình ở liều thấp, có thể khôi phục độ nhạy insulin, cải thiện quá trình rụng trứng. Còn khi nồng độ DCI cao lại gây bất lợi cho buồng trứng, nơi tăng hoạt động của epimerase dẫn đến tăng cường tích lũy DCI và đồng thời làm suy giảm việc dự trữ MI.

Hiện nay, rất nghiều nghiên cứu đã chứng minh sự kết hợp giữa MI và DCI đặc biệt với tỷ lệ MI: DCI (40:1) cho tác dụng lâm sàng tốt hơn so với khi dùng MI hoặc DCI một mình, đồng thời còn giảm liều MI khi so sánh tác dụng với chỉ dùng MI một mình.

Sự kết hợp giữa MI và DCI mang lại nhiều tác dụng lâm sàng như tăng độ nhạy với insulin qua đó giảm sự đề kháng insulin lên tế bào, phục hồi quá trình rụng trứng, giảm nồng độ testosteron, cải thiện chất lượng trứng và giảm nguy cơ mắc bệnh tiểu đường thai kỳ ở phụ nữ mắc PCOS.

OVACEPTIL là sản phẩm được nghiên cứu và phát triển dựa trên các nghiên cứu lâm sàng mới nhất hiện nay chứa nhiều nhóm chất có tác dụng dược lý như:

  • Nhóm chất tăng cường chức năng buồng trứng như rụng trứng, tăng chất lượng tế bào trứng, tăng tỷ lệ mang thai, giảm nguy mắc đái tháo đường ở phụ nữ có nguy cơ cao, giảm nồng độ androgen: Myo-inositol, D-chiro-inositol.
  • Nhóm chất giúp thúc đẩy quá trình sinh estrogen và cân bằng hormon, giảm các triệu chứng tiền kinh nguyệt, phục hồi chức năng buồng trứng: chiết xuất cỏ ba lá đỏ (trifolium pratense extract), cao trinh nữ (vitex agnus castus extract).
  • Nhóm chất chống oxy hóa và các vitamin giúp tế bào trứng phát triển và trưởng thành, ngăn ngừa sảy thai, dị tật thai nhi, tăng cường khả năng thụ thai: CoQ10, kẽm, selen, L-arginin, vitamin E, vitamin B2, B3, B6, B9.

1. Ovaceptil giúp tăng tỷ lệ rụng trứng

Cơ chế:

Các dẫn xuất inositol là các chất mang thông tin thứ hai quan trọng trong con đường kích hoạt để đáp ứng với sự kích thích của thụ thể hormon glycoprotein. Các hormon Glycoprotein, liên kết với thụ thể, kích thích hai con đường: một loại trội – phụ thuộc cAMP, được kích hoạt bởi protein Gs và sau đó, được kích hoạt bởi Gq protein, phụ thuộc vào các dẫn xuất inositol. Các inositol kích hoạt con đường trong dòng chảy của các ion canxi từ mạng lưới nội chất trơn vào cytosol. Trong so sánh với con đường phụ thuộc cAMP con đường inositol, để được kích hoạt, có thể yêu cầu nồng độ cao hơn của hormone và mật độ cao hơn của thụ thể. Theo như vậy điều kiện protein Gq được kích hoạt. Cơ chế tín hiệu kép này có tác động đến sự rụng trứng. Thụ thể FSH kích thích, trong giai đoạn nang trứng sớm, kích hoạt cAMP con đường. Nồng độ cao của cAMP duy trì noãn bào trong tiên tri 1 và kích thích sự tăng sinh và tăng trưởng của granulosa tế bào. Sự gia tăng LH rụng trứng liên quan đến việc kích hoạt con đường inositol. Sự thay đổi của cAMP thúc đẩy việc nối lại của bệnh teo ống dẫn trứng và giải phóng đến ống dẫn trứng noãn trưởng thành. Hơn nữa, có một bằng chứng mạnh mẽ rằng sự gia tăng nồng độ các ion canxi góp phần vào sự trưởng thành tế bào trứng ở nhiều loài. Bằng chứng về sinh lý tầm quan trọng của con đường inositol được kích hoạt LH và sự tham gia của protein Gq trong rụng trứng đến từ nghiên cứu về Breen et al.

Nghiên cứu lâm sàng:

Morgante và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu lâm sang trên bệnh nhân PCOS kháng insulin được điều trị bằng MI cho thấy có ý nghĩ cải thiện tỷ lệ mang thai lâm sàng (33,3% so với 13,3%). Một thử nghiệm ngẫu nhiên, mù đôi, kiểm soát giả dược với Bệnh nhân PCOS, cho thấy tần suất rụng trứng (40%) là tăng đáng kể ở những phụ nữ dùng MI, so với nhóm kiểm soát. Bằng chứng bổ sung đã được cung cấp bởi Kamenov và cộng sự, chứng minh rằng điều trị MI cải thiện IR và trọng lượng cơ thể, và cải thiện hoạt động buồng trứng ở bệnh nhân PCOS. Hơn nữa, điều đáng chú ý là MI chậm lại đáng kể số lần điều trị FSH cần thiết để kích hoạt rụng trứng.

Năm 2007, Gerli và cộng sự đã tiến hành một thử nghiệm lâm sàng trên 92 bệnh nhân mắc PCOS. Nghiên cứu chia số bệnh nhân thành 2 nhóm: nhóm điều trị được dùng 4g MI + 400mcg axít folic và nhóm chứng dùng 400 mcg axít folic trong thời gian từ 12-16 tuần. Nghiên cứu cho thấy nhóm dùng MI có tỷ lệ dụng trứng cao hơn, tăng phát triển tế bào trứng.

2. Ovaceptil giúp tăng chất lượng tế bào trứng

Cơ chế:

MI về cơ bản được tích hợp vào màng tế bào như phosphatidyl-myo-inositol, tiền chất của inositol triphosphate (Ins-1,4,5P3, InsP3), hoạt động như sứ giả thứ hai, điều chỉnh các hoạt động của một số hormone như FSH, TSH và insulin. Ngoài ra, MI đóng vai trò là một thành phần quan trọng cấu trúc lipid phosphatidyl-inositol và các dẫn xuất phosphoryl hóa khác nhau của nó, các lipid phosphatidyl-inositol phosphate. MI dẫn xuất inositol-3-phosphate là một sứ giả thứ hai hình thành bởi sự phân cắt trung gian phospholipase-C (PLP-C) của phosphatidyl-inositol-4,5-phosphate (PI-4,5-P2, PIP2), khi các tế bào được kích thích bởi các yếu tố tăng trưởng hoặc các hormone khác. Sau tương tác của Ins-1,4,5P3 với thụ thể kết hợp ty thể, dẫn xuất MI tham gia vào quá trình điều chỉnh canxi và tiếp tục kích hoạt một số quá trình phosphoryl hóa protein thông qua protein kinase C (PKC).

Một số nghiên cứu chỉ ra rằng MI, bằng chính nó hoặc thông qua các dẫn xuất của nó, đóng một vai trò lớn có liên quan tới một số con đường sinh hóa quan trọng bao gồm hình thái, sắp xếp lại tế bào, chuyển hóa glucose, điều hòa tăng sinh tế bào và khả năng sinh sản.

MI được cho là có vai trò quan trọng trong tế bào trứng và sự phát triển của tinh trùng, cũng như trong quá trình sinh sản. Thật vậy, MI rất cần thiết trong việc đảm bảo noãn bào trưởng thành, giải phóng InsP3 qua trung gian MI và PLP-C và hoạt động LH/FSH. Hơn nữa, thông qua thụ thể Ins-1,4,5P3 (IP3-R), inositol-3-phosphate tham gia điều chỉnh giải phóng Ca2+ nội bào từ ty thể. Trong tế bào trứng có cơ chế liên quan đến một phân nhóm thụ thể cụ thể (IP3-R1) và nó đóng một vai trò quan trọng trong sự trưởng thành tế bào trứng, cụ thể là trong giai đoạn cuối cùng của oogenesis, khi tế bào trứng nhạy cảm với sự thay đổi của ion canxi đạt giá trị tối đa. Thật vậy, canxi được giải phóng từ tế bào trứng được kích hoạt bởi khi tiêm Ins-1,4,5P3, dẫn đến trưởng thành noãn bào. Sự bổ sung MI có thể thúc đẩy quá trình phát triển tế bào trứng có khả năng thụ tinh.

Nghiên cứu lâm sàng:

Sự thiếu hụt MI có liên quan đến chất lượng tế bào trứng kém và một số nghiên cứu gần đây đã nhấn mạnh những tác động tích cực của việc bổ sung MI trong phụ nữ mắc PCOS. Unfer và cộng sự đã chỉ ra rằng việc sử dụng MI, bên cạnh việc cải thiện nội tiết tố nữ và phục hồi quá trình rụng trứng, còn điều hòa chu kỳ kinh nguyệt đều đặn ở bệnh nhân PCOS. Trong khi DCI đóng góp vào việc trung gian hoạt động của insulin chủ yếu trên các mô không chính thống, thì MI cho thấy tác dụng cụ thể đối với buồng trứng, chủ yếu bằng cách điều chỉnh chuyển hóa glucose và tín hiệu FSH. Hơn nữa, MI cũng có thể cải thiện chức năng buồng trứng bằng cách điều chỉnh chuyển hóa steroid thông qua con đường không phụ thuộc insulin. Vì hoạt động của DCI và MI có thể liên quan đến cơ chế sinh học khác nhau, cả hai dạng đồng phân inositol có thể được phối hợp để có tác dụng tốt nhất bằng cách kết hợp MI và DCI theo tỷ lệ tương ứng với lượng tương đối trong huyết tương sinh lý (40:1). Rất nhiều nghiên cứu gần đây đã chứng minh sự phù hợp của việc phối hợp MI và DCI theo tỷ lệ (40:1) và cung cấp nhiều kết quả đầy hứa hẹn.

Một nghiên cứu gần đây của Colazingari S và cộng sự tiến hành trên 100 phụ nữ PCOS trải qua IVFE, được điều trị bằng MI kết hợp với DCI theo tỷ lệ 40:1. Kết quả nghiên cứu cho thấy kết quả tác dụng tốt hơn rất nhiều từ việc kết hợp MI-DCI (40:1) khi so với nhóm đối chứng chỉ điều trị với 500 mg DCI.

Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng bệnh nhân được điều trị với sự kết hợp này cần một liều FSH thấp hơn trong một khoảng thời gian ngắn hơn, và cho thấy một ý nghĩa quan trọng trong việc cải thiện cả chất lượng noãn và tỷ lệ có thai. Hơn nữa, việc điều trị khi kết hợp với MI và DCI (40:1) ở bệnh nhân PCOS đã cải thiện các thông số như huyết áp tâm trương huyết áp, đường huyết lúc đói, insulin lúc đói và cả AUC của insulin và glucose.

Một nghiên cứu ngẫu nhiên ở bệnh nhân PCOS khi sử dụng hỗn hợp MI với DCI (tỷ lệ 40:1) hoặc giả dược (axit folic) trong sáu tháng đã cho thấy sự giảm đáng kể LH, testosterone tự do, insulin lúc đói và chỉ số HOMA, và tăng 17-beta-Estradiol.

3. Ovaceptil giúp tăng tỷ lệ thụ thai

Cơ chế:

Myo-inositol đóng vai trò quan trọng trong sự trưởng thành của nang trứng, chất lượng tế bào trứng, quá trình thụ tinh và phát triển phôi thai.

Nghiên cứu lâm sàng:

Năm 2007, Papaleo và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu trên 25 bệnh nhân sử dụng myo-inositol và axít folic trong thời gian 6 tháng. Kết quả nghiên cứu cho thấy 72% bệnh nhân phục hồi quá trình rụng trứng hàng tháng, tỷ lệ mang thai ở những bệnh nhân này đạt tỷ lệ khá cao 55%.

Năm 2017, Ozlen Emekci và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu sự ảnh hưởng của myo-inositol lên tỷ lệ mang thai của phụ nữ mắc PCOS. 196 bệnh nhân được chia thành 2 nhóm: nhóm 1 sử dụng 4g MI và 400 mcg axít folic, nhóm 2 chỉ sử dụng 400mcg axít folic. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ mang thai của nhóm 1 cao hơn nhóm 2 tương ứng là 18,6% và 12,2%. Nghiên cứu đã chứng minh rằng sử dụng MI làm tăng tỷ lệ mang thai, giảm tổng liều FSH và cải thiện quá trình rụng trứng.

Năm 2019, Mendoza Nicolas và cộng sự đã đánh giá khả năng mang thai ở phụ nữ PCOS trên myo-inositol và / hoặc D-chiro-inositol trải qua các phương pháp điều trị mang thai có mục tiêu như kích thích buồng trứng, thụ tinh trong ống nghiệm (IVF), thụ tinh trong tử cung (IUI). Nghiên cứu cho thấy việc kết hợp MI và DCI đã cải thiện tỷ lệ mang thai ở phụ nữ mắc PCOS.

4. Ovaceptil giúp giảm nguy cơ mắc đái tháo đường thai kỳ trên bệnh nhân có nguy cơ cao

Cơ chế:

MI có mặt trong các tế bào cả dưới dạng tự do và như là các thành phần của màng phosphoinositide và tham gia vào nhiều chức năng, bao gồm sự phát triển và sự sống của tế bào, sự phát triển và chức năng của các dây thần kinh ngoại biên, tạo xương và sinh sản. Ngoài ra MI cũng là thành phần của màng tế bào, có một chức năng quan trọng trong tính toàn vẹn màng và trong tín hiệu nội bào.

Phosphatidylinositol là tiền chất của phosphatidylinositol phosphate và phosphatidylinositol diphosphate (PIP2), khi thủy phân bởi phospholipase C (PLC) sẽ cho inositol 1,4,5 trisphosphate; chất này đóng vai trò là sứ giả thứ hai của các thụ thể màng kết hợp với PLC, được tham gia vào cơ chế tín hiệu của nhiều autacoids, hormone và chất dẫn truyền thần kinh. Cả MI và DCI-phosphoinositide đều có vao trò trong quá trình trao đổi chất kích hoạt các enzyme chủ chốt liên quan đến quá trình oxy hóa và chuyển hóa glucose không oxy hóa. MI có liên quan đến quá trình trao đổi chất, vận chuyển, phân giải glucose và chuyển đổi thành glycogen. Trong khi DCI có liên quan đến việc truyền tín hiệu con đường insulin và sự kích thích của các enzyme tham gia vào quá trình điều hòa chuyển hóa glucose (ví dụ, pyruvate dehydrogenase phosphatase (PDHP), protein phosphatase 2C (PP2C), glycan inositol-phosphate). Ngoài ra, các nghiên cứu cũng cho rằng sự phối hợp MI và DCI có vai trò quan trọng trong sự trao đổi đường glucose; đặc biệt, MI gây ra sự dịch chuyển của chất vận chuyển glucose đến màng tế bào do đó tăng cường hấp thu tế bào glucose trong khi DCI kích thích pyruvate dehydrogenase và hỗ trợ sản xuất ATP thông qua chu trình Krebs. Hơn nữa, gần đây dữ liệu chỉ ra rằng glycans DCI kích thích bài tiết insulin trong các tế bào beta của tụy. Như vậy MI và DCI là chìa khóa cho sự hấp thu glucose của tế bào.

Khi cơ thể thiếu hụt MI, nồng độ PI3K và PIP2 thấp (các dẫn chất của MI) > Khiếm khuyết chuyển vị GLUT 4 > Ức chế hấp thu glucose của tế bào, tăng Glucose máu > IRS không thể trở về vị trí ban đầu > Gắn kết với phân tử insulin mới không thể xảy ra > Đề kháng insulin, tăng nồng độ androgen và cuối cùng dẫn tới hiếm muộn.

Do vậy bổ sung MI và DCI là chìa khóa để tái lặp sự vận chuyển glucose bình thường.

Nghiên cứu lâm sàng:

Năm 2019, Facchinetti Fabio và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu lâm sang so sánh việc sử dụng myo-inositol và / hoặc D-chiro-inositol với liệu pháp PCOS tiêu chuẩn. Một đánh giá có hệ thống và phân tích tổng hợp các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên từ 1994 đến 2017 khi so sánh việc sử dụng metformin với sử dụng MI ở bệnh nhân PCOS. Không có sự khác biệt đáng kể được tìm thấy giữa nhóm người dùng metformin và MI về lượng insulin, mô hình cân bằng nội môi kháng insulin (HOMA-IR), testosterone, globulin gắn hormone sinh dục (SHBG) và chỉ số BMI. Do đó, việc sử dụng MI để thay thế metformin đã làm giảm tác dụng phụ đáng kể của metformin khi so sánh với những người dùng MI. Trong một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có kiểm soát của Shokrpour Maryam và cộng sự năm 2019, phụ nữ mắc PCOS được dùng metformin hoặc MI trong 12 tuần. So sánh hiệu quả điều trị của MI và metformin cho thấy MI làm giảm đáng kể glucose huyết tương lúc đói, insulin huyết thanh, HOMA-IR, triglyceride, VLDL cholesterol và làm tăng đáng kể chỉ số kiểm tra độ nhạy insulin định lượng.

Năm 2017 Unfer Vittorio và cộng sự đã tiến hành một phân tích tổng hợp các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng trên phụ nữ PCOS sử dụng myo-inositol hoặc kết hợp với D-chiro-inositol. Kết quả cho thấy có sự giảm đáng kể về insulin lúc đói, HOMA-IR và testosterone sau khi bổ sung MI. Hơn nữa, sự gia tăng đáng kể về SHBG đã được ghi nhận ở những bệnh nhân dùng MI trong ít nhất 24 tuần.

Năm 2017 Fruzzetti và công sự đã tiến hành nghiên cứu lâm sàng trên phụ nữ PCOS sử dụng metformin (1500 mg/ngày) hoặc myo-inositol (4 g/ngày). Kết quả cho thấy hiệu quả điều trị với metformin và MI là tương đối giống nhau như cải thiện độ nhạy insulin, giảm BMI đáng kể và chu kỳ kinh nguyệt ở phụ nữ.

5. Ovaceptil giúp giảm nồng độ androgen, tăng cường nội tiết tố nữ trên bệnh nhân mắc PCOS

Cơ chế:

PCOS là một trong những rối loạn nội tiết phổ biến nhất ảnh hưởng đến phụ nữ và nó được đặc trưng bởi sự kết hợp của việc tăng nồng độ androgen, giảm sự rụng trắng và kháng insulin. Hai đồng phân của inositol là myo-inositol (MI) và D-chiro-inositol (DCI) đã được chứng minh là có hiệu quả trong việc điều trị PCOS bằng cách cải thiện tình trạng kháng insulin, nồng độ androgen trong huyết thanh và nhiều đặc điểm của hội chứng chuyển hóa. Nhiều nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng sự phối hợp MI và DCI theo tỷ lệ 40: 1 cho thấy nhiều kết quả lâm sàng đáng mong đợi ở bệnh nhân PCOS.

Nghiên cứu lâm sàng:

Năm 2016, Pkhaladze Lali và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu lấm sàng trên vị thành niên ở trẻ gái (13-19 tuổi) mắc PCOS. Nghiên cứu đã chia bệnh nhân ra thành ba nhóm gồm: nhóm 1 (drospirenone 3mg / ethinyl estradiol 30mcg) nhóm 2 (4g myo-inositol và 400mg axit folic) và nhóm 3 (kết hợp thành phân của cả nhóm 1 và 2). Kết quả nghiên cứu cho thấy bệnh nhân được điều trị trong nhóm 2 giảm đáng kể cân nặng, chỉ số BMI, glucose, C-peptide, insulin, HOMA-IR, testosterone tự do và LH. Cân nặng và BMI tăng nhẹ trong nhóm 1. Tuy nhiên, ở nhóm 3, cân nặng và BMI không thay đổi, nhưng có sự giảm nồng độ C-peptide, insulin, HOMA-IR, testosterone tổng số, testosterone tự do, dehydroepiandrosterone sulfate (DHEA-S), LH và tăng SHBG tăng.

Một nghiên cứu ngẫu nhiên của Benelli Elena năm 2016 ở bệnh nhân PCOS sử dụng MI với DCI (tỷ lệ 40: 1) hoặc giả dược (axit folic) trong sáu tháng. Kết quả nghiên cứu cho thấy nhóm bệnh nhân sử dụng MI và DCI có sự giảm đáng kể LH, testosterone tự do, insulin lúc đói và chỉ số HOMA, và tăng 17-beta Estradiol khi so sánh với nhóm chỉ dùng axít folic.

6. Ovaceptil giúp phục hồi chu kỳ kinh nguyệt, điều trị hội chứng tiền kinh nguyệt

Cơ chế:

MI và DCI đóng vai trò quan trọng trong chu kỳ rụng trứng, đồng thời điều chỉnh nội tiết tố nữ thông qua INSP3.

Cỏ ba lá (Trifolium pretense) có chứa isoflavon (cấu tạo giống estrogen) cho thấy tác dụng rất tốt trong việc phục hồi hoạt động estrogen, cân bằng hormon trong cơ thể và giúp thúc đẩy quá trình sản sinh estrogen nội sinh giúp nâng cao nồng độ estrogen cho phụ nữ thiếu hụt estrogen.

Cây Trinh nữ (Vitex agnus castus) có hiệu quả cao trong việc làm giảm các triệu chứng tiền kinh nguyệt ở phụ nữ quanh mãn kinh. Các cơ quan y tế Đức đã phê duyệt cho việc sử dụng cây trinh nữ cho những bất thường của chu kỳ kinh nguyệt và mắc hội chứng tiền kinh nguyệt ở phụ nữ.

Nghiên cứu lâm sàng:

Genazzani và cộng sự (2008) đã tiến hành nghiên cứu để đánh giá tác dụng của việc sử dụng MI trên bệnh nhân PCOS. Kết quả cho thấy nhóm bệnh nhân sử dụng 2g MI với 200 mcg axít folic/1 ngày trong 12 tuần đã phục hồi chu kỳ kinh nguyệt.

Monica và cộng sự (2017) đã tiến hành nghiên cứu để đánh giá ảnh hưởng của việc điều trị MI trên 71 bệnh nhân mắc PCOS bị rối loạn kinh nguyệt. Kết quả cho thấy sau khoảng 3 tháng điều trị, tỷ lệ phụ nữ được cải thiện rối loạn kinh nguyệt chung là 74,65%, trong đó 88,67 % ở nhóm kinh thưa và rong kinh, 77,4 % ở nhóm kinh thưa, 50% ở nhóm vô kinh.

7. Ovaceptil chứa nhóm khoáng chất và vitamin giúp tế bào trứng phát triển và trưởng thành, tăng tỷ lệ mang thai, ngăn ngừa sảy thai, dị tật thai

Cơ chế:

Stress oxy hóa được gọi là sự mất cân bằng giữa các chất oxy hóa và chất chống oxy hóa và tạo ra các gốc tự do oxy hóa (ROS). Rất nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng các gốc tự do oxy hóa gia tăng ở những bệnh nhân mắc PCOS, do đó tới quá trình hình thành, phát triển của tế bào trứng và gây nên hiện tượng vô sinh ở nữ giới.

Do vậy việc bổ sung các chất chống oxy hóa CoQ10, kẽm, selen, vitamin E, L-arginin như đóng vai trò quan trọng trong việc bắt giữ các gốc tự do giúp tế bào trứng hình thành, trưởng thành tốt nhất và giảm sự đề kháng insulin.

Các vitamin B như B2, B3, B6, B9 cũng cần được bổ sung với đối tượng phụ nữ mong muốn mang thai. Việc kết hợp các vitamin nhóm B cần thiết cho cho quá trình tổng hợp DNA, sửa chữa DNA và đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ sự phân chia và phát triển tế bào trứng, tăng tỷ lệ mang thai ở phụ nữ.

Coenzyme Q 10 là một chất chống oxy hóa mạnh, có vai trò trong việc bắt giữ các gốc tự do. Bổ sung CoQ10 cải thiện đáng kể việc kiểm soát đường huyết (nồng độ glucose, nồng độ insulin, kháng insulin và HbA1c), huyết áp, rối loạn lipid máu (triglyceride, cholesteron), tỷ lệ rụng trứng.

Kẽm là một nguyên tố vi lượng thiết yếu được tìm thấy trong chuyển hóa lipid, carbohydrate và protein. Nó đóng vai trò trong chức năng của hơn 300 enzyme, là một thành phần của hơn 200 enzyme. Đặc biệt, các ion kẽm đóng vai trò quan trọng trong chuyển hóa insulin bao gồm sự tổng hợp, lưu trữ, bài tiết, tính toàn vẹn về hình dạng, chức năng, và hoạt động của insulin, và các ion kẽm cũng tạo ra một tác dụng giống như insulin. Vì lý do này, thiếu kẽm gây ra bệnh tiểu đường, béo phì, không dung nạp glucose, lipid máu, tăng đường huyết và tăng triglyceride máu.

Selen là một yếu tố thiết yếu có tác dụng chống lại quá trình oxy hóa do căng thẳng và cần thiết cho sự phát triển của tuyến phôi sinh dục và chức năng của các mô sinh sản. Nghiên cứu sinh hóa đã chỉ ra rằng phụ nữ bị PCOS có nồng độ selen thấp hơn bình thường và sự tích lũy các gốc tự do là nồng độ selen không đủ, dẫn đến tăng nồng độ androgen bao gồm LH và tổng testosterone.

Vitamin E là một vitamin tan trong dầu và chất làm sạch gốc tự do điều chỉnh sự cân bằng giữa chất chống oxy hóa và chất oxy hóa hệ thống. Ngoài ra, nghiên cứu gần đây còn chứng minh vitamin E có thể cải thiện độ dày nội mạc tử cung ở phụ nữ vô sinh không rõ nguyên nhân.

L-arginin là một axit amin bán thiết yếu tham gia vào tổng hợp protein và creatine, mô phỏng hormone đồng hóa mô phỏng và cải thiện cân bằng nitơ. Nó là chất bắt giữ các gốc oxy hóa tụ do và chất nền của NO synthase, vì vậy nó có thể làm giảm bớt và bảo vệ khỏi tổn thương nội mô. Một số các nghiên cứu trước đây chỉ ra rằng L-Arginin là chất bảo vệ, chống lại một số bệnh mãn tính.

Vitamin B2 là một chất chống oxy hóa chống lại các gốc oxy hóa tự do gây tổn hại tế bào và DNA, góp phần vào quá trình lão hóa, gây ra bệnh tim và ung thư. Nó đóng một vai trò quan trọng vai trò trong việc chuyển đổi thực phẩm thành năng lượng và tham gia vào một số con đường enzyme.

Vitamin B3 có liên quan đến hơn 200 phản ứng khác nhau trong quá trình chuyển hóa carbohydrate, chất béo và chất đạm. Niacin cũng giúp cơ thể cải thiện sự ham muốn quan hệ tình dục khác nhau và các hormone liên quan đến căng thẳng ở tuyến thượng thận và cải thiện lưu thông.

Vitamin B6 là cần thiết cho tổng hợp protein. Nó cũng cần thiết cho sản xuất serotonin. Cùng với vitamin B9 (axit folic) và vitamin B12, sự kết hợp ba vitamin này có vai trò quan trọng trong việc giảm homocysteine, một loại axit amin thúc đẩy bệnh tim.

Vitamin B6 là một coenzyme có vai trò trong chuyển hóa protein và carbohydrat, sản xuất insulin, tế bào máu đỏ và trắng, sự tổng hợp các chất dẫn truyền thần kinh, enzyme và tuyến tiền liệt.

Vitamin B9 (dưới dạng axit folic) rất quan trọng đối với sức khỏe của tim do vai trò của nó trong việc điều chỉnh mức homocysteine. Nồng độ homocysteine cao có liên quan đến bệnh tim và bệnh Alzheimer. Thiếu hụt axít folic trong thai kỳ sớm làm tăng nguy cơ dị tật ống thần kinh. Axit folic cần thiết cho các chức năng cơ thể như sản xuất các tế bào hồng cầu khỏe mạnh và ngăn ngừa thiếu máu; tổng hợp DNA, sửa chữa DNA và DNA methylate. Nó đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ sự phân chia và phát triển tế bào ở giai đoạn trứng nước và mang thai. Do vậy việc bổ sung axit folic là cần thiết cho phụ nữ mang thai.

Nghiên cứu lâm sàng:

Panti Abubakar và cộng sự năm 2015 đã tiến hành thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng trên 200 phụ nữ mắc PCOS. Nghiên cứu chia ngẫu nhiên bệnh nhân thành 2 nhóm:

Nhóm 1: Sử dụng các vitamin và khoáng chất gồm có vitamin 5000iu, vitamin B1 5mg, vitamin B6 2mg, vitamin B12, vitamin C 75mg, vitamin D3 400iu, Vitamin E 15mg, nicotinamide 45mg, folic axít 1000mcg, sắt fumerate 50mg, calcium phosphate 70mg, đồng sulphate 0,1mg, manganese sulphate 0,01mg, kẽm sulphate 50mg, kali iodide 0,025mg và magnesium oxide 0,5mg trên 1 ngày (n=100)

Nhóm 2: Placebo: gồm axít folic và fersolate trên 1 ngày (n=100)

Sau 6 tháng điều trị, nhóm bệnh nhân sử dụng các vitamin và khoáng chất đã cải thiện tỷ lệ mang thai lâm sàng, giúp phụ nữ có kinh nguyệt đều đặn.

Tổng hợp 50 thử nghiệm lâm sàng với 6510 phụ nữ. Các nhà khoa học đã so sánh các chất chống oxy hóa đường uống, bao gồm sự kết hợp của các chất chống oxy hóa như N-acetyl-cysteine, melatonin, L arginine, myo-inositol, D-chiro-inositol, Carnitine, selenium, vitamin E, vitamin B, vitamin C, vitamin D + canxi, CoQ10, pentoxifylline và axit béo không bão hòa omega-3 so với giả dược, không điều trị/điều trị chuẩn hoặc chất chống oxy hóa khác.Kết quả các nghiên cứu cho thấy các chất chống oxy hóa có thể liên quan đến tăng tỷ lệ sinh sản ở phụ nữ so với giả dược hoặc không điều trị / điều trị chuẩn (OR 1.52, 95% CI 1,31 to 1,76, P < 0,001, 26 RCTs, 4271 phụ nữa, I2=66%). Điều này cho thấy rằng trong số phụ nữ hiếm muộn với tỷ lệ sinh sản là 20% thì tỷ lệ phụ nữ sử dụng chất chống oxy hóa có tỷ lệ sinh sản tăng khoảng từ 26% đến 43%. Các nghiên cứu cho thấy chỉ cần bổ sung một lượng các chất chống oxy hóa sẽ làm tăng tỷ lệ sinh sản và mang thai lâm sàng.

Nhiều nghiên cứu lâm sàng đã chỉ ra việc sử dụn các chất chống oxy hóa như CoQ10, kẽm, selen, vitamin E… có liên quan đến việc tăng tỷ lệ mang thai lâm sàng khi so sánh với giả dược hoặc không điều trị.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *